Trang chủ Chuyên gia viết Không gian thiêng trong Lễ cấp sắc của người Dao Làn Tẻn

Không gian thiêng trong Lễ cấp sắc của người Dao Làn Tẻn

Trong nghi lễ, nhất là nghi lễ tôn giáo, không gian thiêng đóng một vai trò quan trọng. Không gian thiêng quy định chức năng của nghi lễ đồng thời phản ánh các giá trị nghi lễ. Không gian thiêng như yếu tố vật chất chứa đựng cả giá trị lịch sử – văn hóa, phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan tộc người. Không gian thiêng còn thể hiện nghệ thuật trang trí, tích hợp nghệ thuật trình diễn trong thời gian thiêng. Bài viết này trình bày cấu trúc về không gian thiêng nghi lễ cấp sắc(*) của người Dao Tuyển (Dao Làn Tẻn) cũng như đặc trưng trang trí trong không gian thiêng. Đặc biệt, bài viết còn đề cập về không gian trình diễn, không gian giới của nghi lễ cấp sắc. Nghiên cứu không gian thiêng sẽ thấy rõ vũ trụ quan, hệ thống vai trò của thần linh trong lễ cấp sắc. Mặt khác, thông qua không gian thiêng cũng phản ánh không gian các giáo phái của Đạo giáo du nhập vào thế giới người Dao cũng như sự tích hợp giữa Đạo giáo và thế giới riêng của tộc người Dao.

Không gian thiêng là gì?

Không gian thiêng được nhiều nhà xã hội học, nhân học, tôn giáo học nghiên cứu. Mircea Eliade (1956) đã đề cập đến không gian thiêng trong các công trình “Bàn về nguồn gốc các tôn giáo” (1948), “Thiêng và Phàm” (1956); ông nhấn mạnh “mọi không gian thiêng bao hàm một sự linh hiển, một sự xâm nhập của cái thiêng mà hệ quả là tách một mảnh đất khỏi môi trường cư trú xung quanh và làm cho nó khác hẳn đi về chất”; và rằng “không gian thiêng luôn chiếm lĩnh vị trí đặc biệt và là nơi trung gian, hay là một lối mở mà từ đó con người tìm kiếm sự giao tiếp với thần linh”.

Ở Việt Nam, Phạm Quỳnh Phương (2009), Đỗ Quang Hưng (2010), Nguyễn Văn Sửu và Chu Thị Hương (2015) cũng đề cập đến không gian thiêng. Nguyễn Văn Sửu và Chu Thị Hương nhấn mạnh không gian thiêng là “nơi chứa đựng các vật thể và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng mang tính thiêng”. Hoàng Văn Chung là người nghiên cứu sâu về không gian thiêng đã đưa ra những đặc điểm và chức năng của không gian thiêng là: (1) nơi chứa đựng vật thiêng, biểu tượng thiêng; (2) do con người tạo ra, gán cho tính thiêng, đòng thời tìm kiếm cho nó sự hợp pháp hóa; (3) là nơi trung gian để con người giao tiếp với cái thiêng qua nghi lễ; (4) bảo lưu và trao truyền các tri thức và ký ức tập thể; (5) các không gian thiêng không luôn cố định và biệt lập mà tồn tại trong mối liên hệ với các không gian khác (thiêng hoặc thế tục) và chúng có thể biến đổi về chức năng, ý nghĩa, kết cấu…v.v; sự biến đổi này có mối liên hệ chặt chẽ với bối cảnh xã hội thực tại.

Lễ cấp sắc của người Dao Làn Tẻn diễn ra ở các không gian bên trong và bên ngoài khuôn viên ngôi nhà người Dao. Trước khi tổ chức lễ cấp sắc, ngôi nhà người Dao có không gian thiêng của ngôi nhà là nơi đặt bàn thờ tổ tiên và ma nhà. Khi tổ chức lễ cấp sắc, người Dao tiến hành dựng các không gian thiêng riêng: Thượng Bát đàn, Hạ Bát đàn, Thiên Đình sở, Ngũ đài, Kinh buồng. Các không gian này là không gian thiêng. Đây là nơi chốn nơi các thần linh xuống trú ngụ, giúp gia chủ và thầy cúng tổ chức lễ cấp sắc.

Không gian thiêng của người Dao đóng một vai trò rất quan trọng trong nghi lễ nhưng ở Việt Nam ít được các tác giả chú trọng. Phan Ngọc Khuê trong nghiên cứu “Lễ cấp sắc của người Dao Lô Gang ở Lạng Sơn” chỉ nêu khái quát sơ đồ mặt bằng gian nhà diễn ra lễ cấp sắc. Nhưng rất tiếc là tác giả không miêu thuật về không gian cũng như các vật thiêng nơi thờ thần. Năm 1999, Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý có công trình “Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang”. Trong phần viết về lễ cấp sắc, các tác giả có đề cập đến địa điểm lễ ở trong nhà và ở ngũ đài. Công trình của các tác giả đã gợi mở cho người đọc về không gian thiêng của lễ cấp sắc. Tuy nhiên, cũng như nhiều công trình, bài báo khoa học về lễ cấp sắc của người Dao ở Việt Nam, các tác giả không đề cập đến không gian thiêng. Trong số 7 bài báo khoa học và các sách dân tộc chí về người Dao chỉ có bài “Suy nghĩ về trang trí đám chay của người Dao Tuyển ở Lào Cai” của Đào Thành Thái đề cập khá chi tiết về không gian lễ cấp sắ; tác giả đã tiếp cận, phân tích các đàn cúng của người Dao bằng lý thuyết biểu tượng, giải mã một số biểu tượng, đồng thời miêu thuật khá kỹ về nội dung các câu đối, các địa danh được dán trên đàn cúng; tuy nhiên, tác giả chưa nhìn đàn cúng – không gian thiêng trong mối quan hệ với tôn giáo, văn hóa, nếp sống của người Dao; do đó, một số vấn đề tác giả đề cập như vũ trụ quan, hệ thống thần linh của người Dao chưa đúng hoặc còn thiếu. Có thể thấy, vấn đề không gian thiêng trong các nghiên cứu về lễ cấp sắc người Dao hoặc các nghi lễ tôn giáo người Dao chưa được các tác giả chú trọng và nghiên cứu một cách hệ thống, thậm chí chưa đặt không gian thiêng trong toàn bộ đời sống tôn giáo, tín ngưỡng người Dao.

Cấu trúc các tiểu không gian thiêng trong lễ cấp sắc của người Dao Làn Tẻn

Không gian thiêng trong lễ cấp sắc của người Dao Làn Tẻn gồm có đàn cúng chính (Thượng Bát đàn), đàn cúng phụ (Hạ Bát đàn), kinh buồng (nơi người cấp sắc tập đọc kinh), Thiên Đình sở, Ngũ đài. Năm không gian đó là nơi đón các vị thần về nơi hành lễ tụng kinh với các nghi thức khác nhau, chức năng khác nhau.

a. Thượng Bát đàn

Trong các không gian thiêng của lễ cấp sắc thì Thượng Bát đàn là không gian có diện tích lớn nhất và có vai trò quan trọng nhất. Đàn cúng là nơi trú ngụ của các vị thần ở các miếu thần tiên ở thế giới Thiên Phủ xuống trú ngụ trong thời gian làm lễ. Vì vậy, Thượng Bát đàn được chuẩn bị khá công phu. Gia chủ cử người vào rừng chặt bảy cây nứa dài khoảng 2,2m, dựng ở khoảng không giáp với tường nhà, đối diện với cửa chính của gian giữa nhà. Các cây nứa cách nhau 40cm. Gia chủ đan phên nứa, ốp kín phía trước của bảy cây nứa tạo thành tấm phên, vách hình chữ nhật có chiều cao 2m và chiều rộng hơn 3m.

Thượng Bát đàn được trang trí bằng hoa văn, tranh thờ, các hàng chữ ghi tên các địa danh là nơi trú ngụ của các vị thánh thần, ghi chức vị của các ông thầy cúng Đạo giáo và Sư giáo cùng các câu đối và các cửa có bát hương nơi các vị thần về tạm trú. Thượng Bát đàn nhìn từ trên xuống dưới theo chiều dọc được chia thành 3 phủ và hàng cuối cùng là nơi để bát hương thờ các thần. Ba phủ theo quan niệm của người Dao Làn Tẻn là Ứng Thiên Phủ (“Anh tển pu”), Hỗn Nguyên Phủ (“Hoẳn nhồn pu”), và Cửu Long Phủ (“Chău lòng pu”):

– Ứng Thiên Phủ là thế giới ở trên trời, nơi dành riêng cho các vị thần trú ngụ; đồng thời, có một khu vực thấp hơn là nơi trú ngụ của tổ tiên người Dao. Ứng Thiên Phủ còn có tên gọi khác là thiên giới. Trong sách “Lương Duyên Huyền Bí” có giải thích đại diện cho Ứng Thiên Phủ là sao Kim làm trung tâm (Kim tinh).

– Hỗn Nguyên Phủ là địa giới, nơi dành riêng cho con người, con vật, cây cối sinh sống. Hỗn Nguyên Phủ lấy mặt trời là trung tâm (Hỏa tinh).

– Cửu Long Phủ là thủy giới, lấy mặt trăng làm trung tâm (Nguyệt phủ). Quan niệm của các thầy cúng Đạo giáo người Dao Làn Tẻn ở huyện Bảo Thắng (Lào Cai) cho rằng thủy phủ còn có một bộ phận, một phần gọi là địa phủ.

Ba hàng hoa văn ngăn cách biểu tượng của ba phủ đều là hoa văn hình quả hồ lô (phía trên Thiên phủ) chạy ngang Thượng Bát đàn (từ trái qua phải). Thế giới Hỗn Nguyên Phủ được biểu tượng bằng hình quả bầu và hình con kiến. Thế giới Cửu Long Phủ là hình con rùa (có nơi đan xen với hình con rồng). Thế giới “Thiên phủ” được biểu hiện bằng “danh phủ” – nơi tu luyện của các vị thần phái Đạo giáo (Tam Thanh) và Sư giáo (Tam Nguyên). Hình 1 mô tả sơ đồ trang trí của Thượng Bát đàn.

Hình 1. Sơ đồ Thượng Bát đàn lễ cấp sắc cho đệ tự Bàn Cao Hạnh thôn Nhai Tẻn, xã Kim Sơn, Huyện Bảo Yên

Tầng cuối cùng của Thượng Bát đàn cách mặt đất khoảng 10cm là hàng các cửa có bát nhang. Tùy không gian của mỗi gian nhà rộng hay hẹp, các thầy cúng có thể bố trí từ 6 đến 12 bát nhang khác nhau. Mỗi bát nhang đặt ở cửa thờ các vị thần của người Dao về dự lễ cấp sắc (Hình 2).

Hình 2. Một sơ đồ Thượng Bát đàn trong lễ cấp sắc

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, trên Thượng Bát đàn còn treo các tranh thờ. Nhưng sau đó các lễ cấp sắc đều không treo tranh thờ. Thậm chí, tranh thờ cũng còn rất ít. Cả tỉnh Lào Cai, chúng tôi khảo sát mới có năm thầy cúng có tranh thờ nhưng hiện nay trong các lễ cấp sắc đều không dùng. Tuy nhiên, họ có sử dụng các mặt nạ giấy treo ở các cửa bát hương đón thần về. Khảo sát ở huyện Bảo Thắng, chúng tôi nhận thấy người Dao đã sử dụng 18 mặt nạ: 1. Thượng Nguyên – “Dang nhồn trang); 2. Cung nguyên – “Chóng nhồn trang”; 3. Hạ nguyên – “dạ nhồn trang”; 4. Tam Nguyên – “Thám nhồn trang”; 5. Lệnh công – “Lanh cóng trang”; 6. Bàn vương – “Bồn vôồng trang”; 7. Đế mẫu – “Tay mụ trang”; 8. Cam cổ – “Cóm cú trang”; 9. Ngũ thương – “ngụ xảng trang”; 10. Giám trụ – “Cam dụi trang”; 11. Lối vương – “lùi vôồng trang”; 12. Cửu nương – “Chău nháng trang”; 13. Đồng nhi – “dòng nhì trang”; 14. Công tào – “cóng ròu trang”; 15. Đàn quan – “đàn cốn trang”; 16. Thổ địa – “Lù pán trang”; 17. Lỗ ban – “Lù pán trang”; 18. Long phượng – “Lòng bong trang”.

Khảo sát tại bản Nhiều Sang, xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu năm 2012 cho thấy người Dao Đầu Bằng (một nhóm địa phương của Dao Lan Tẻn) vừa trang trí ở Thượng Bát đàn và Hạ Bát đàn cả tranh thờ cùng với mặt nạ giấy (Hình 3). Về tranh thờ, có các bộ Tam Thanh treo ở phía trên ở Thượng Bát đàn (nghiêng về trái); bên phải treo bộ tranh Tam Nguyên. Phía dưới Thượng Bát đàn treo bộ tranh Tứ Đại Nguyên Soái (gồm có hình của bốn vị nguyên soái). Phía treo tranh dưới bên trái là treo bộ Tả Sư (Triệu Mã Nguyên Soái, Đặng Quan Nguyên Soái); bên phải treo bộ Hữu Thánh (Triệu Mã Nguyên Soái, Đặng Quan Nguyên Soái). Hai bên cửa thuộc Hạ Bát đàn treo bộ Tứ Trực Công Tào và Quan Binh (Hình 4).

Hình 3. Tranh và mặt nạ thờ trong lễ cấp sắc của người Dao Đầu Bằng
Hình 4. Sơ đồ treo tranh cấp sắc ở Bát đàn lễ cấp sắc bản Nhiều Sang, xã Hồ Thầu, huyện Tam Đường, Lai Châu

Trong lễ cấp sắc ở vùng Hồ Thầu này, người Dao Đầu Bằng còn dùng các mặt nạ giấy – biểu tượng của các vị thần thuộc phái Sư giáo về dự lễ cấp sắc.

b. Hạ Bát đàn

Hạ Bát đàn nằm ở vị trí đối diện với Thượng Bát đàn, ở phía bên kia sàn nhà gian giữa. Ngày 29 tháng 3 năm 2003, chúng tôi quan sát trong lễ cấp sắc cho anh Triệu Văn Chính, các thầy cúng cũng bố trí Hạ Bát đàn ở hai bên vách trong của cửa ra vào chính. Hai bên vách này đối diện với Thượng Bát đàn. Hạ Bát đàn được phân làm hai phần ở hai bên tường phía trái cửa và bên phải cửa. Bên trái là nơi thờ một số thần linh của Đạo giáo, có một bát hương và hai hình nhân – mặt nạ màu đỏ và màu vàng; hai hình nhân này là nơi thờ Ngọc Hoàng với các Công Tào. Bên phải Hạ Bát đàn là một bát hương nơi thờ Bàn Vương và bố mẹ của thầy ở bên Sư. Hai bên bát hương là hai cây mía như hai cây mía trên bàn thờ của người Kinh vào dịp Tết. Hạ Bát đàn có ghi các chữ địa danh: “Dạ pát đàn” – Hạ Bát đàn; “Tảnh òa pu” – Thanh Hoa Phủ; “Lên đu đoòng” – Luyện Độ Đường.

c. Kinh buồng

Kinh buồng là buồng đọc kinh của cậu trò được cấp sắc. Nơi đây, ông thầy cúng dạy trò đọc kinh ngày đêm. Kinh buồng nằm ở gian trái của gian dựng đàn thờ, tượng trưng cho núi Long Hổ Sơn. Đây là ngọn núi Trương Thiên Sư đã tu hơn 10 năm tại đây. Do đó kinh buồng cũng tượng trưng cho nơi tu luyện, học tập kinh thư của Đạo giáo. Tại đây, thầy Đạo giáo sẽ dạy cho học trò các bài kinh thiết yếu.

d. Thiên Đình sở

Phía ngoài cửa có một ngôi miếu nhỏ được trang trí bằng giấy màu vàng, màu đỏ. Nổi bật là hàng chữ Thiên Đình sở. Đây là miếu thờ Thành Hoàng làng, tất cả các thần linh từ thế giới Thiên Phủ vào dự lễ cấp sắc đều phải qua đây. Chỉ khi nào Thành Hoàng làng mở cửa miếu, lúc đó các thần linh mới được đi qua. Vì thế, thầy cúng phải coi trọng Thành Hoàng làng, có sớ tâu trình cụ thể. Thiên Đình sở còn có các địa danh: Thành Đô phủ – “Rảnh tú pu”; Thành Hoàng điện – “Rành vồng đên”. Ở miếu còn ghi hai câu đối về nhiệm vụ của Thành Hoàng làng.

e. Ngũ đài

Ngũ đài ở một khu đất bằng phẳng, có khi gần nhà, khoảng 50 – 70m – lễ cấp sắc của Triệu Văn Chính ngày 29 tháng 03 năm 2003. Trong lễ cấp sắc của Lý Văn Khoa ở bản Lọt ngày 26 tháng 12 năm 2017, Ngũ đài lại ở phía ruộng, cách nhà cậu bé gần 100m. Nhưng theo các thầy cúng Triệu Văn Quẩy ở bản Phiệt, Hoàng Sí Lực ở làng Mi, xã Xuân Quang, huyện Bảo Thắng thì trước đây khoảng 50 năm, các làng người Dao ở Lào Cai, Yên Bái còn thưa dân. Không gian trong làng vừa có nhà vừa có khuôn viên rừng cây, nương rẫy. Do đó, Ngũ đài có thể được chọn ở vị trí mặt đồi cao nhưng tương đối bằng phẳng phía trước ngôi nhà. Ngũ đài thường là mặt sàn gỗ ở có bốn cột chống đỡ. Phía đông có năm bậc cầu thang lên. Ngũ đài năm trên sườn đồi cao là biểu tượng của núi Mai Sơn. Ngọn núi này là trung tâm tu hành của phái Sư giáo, đồng thời, đây cũng là ngọn núi thiêng của phái này. Ngọn núi thiêng này ở trong sự tích là ngọn núi hiểm trở, có nhiều thử thách đối với các sư công.

g. Nhận xét về cấu trúc không gian thiêng

Các tiểu không gian thiêng trong lễ cấp sắc người Dao Làn Tẻn đã phản ánh cấu trúc của hai mặt đối lập – cấu trúc bên Đạo giáo và cấu trúc bên Sư giáo. Chỉ dành riêng cho cấu trúc bên Đạo giáo là Kinh buồng – nơi trẻ được cấp sắc chuyên đọc kinh theo hướng dẫn của thầy Đạo giáo. Ở đây là không gian thiêng của ngành văn (Đạo giáo), khác với ngành bên võ (Sư giáo). Hình tượng của Kinh buồng chính là hình tượng của động Long Hổ Sơn – trung tâm tu luyện học tập của giáo phái Tam Thanh. Còn bên Sư giáo là không gian Ngũ đài – nơi đứa trẻ được cấp sắc luyện tập, tái sinh dưới sự hướng dẫn của các thầy bên Sư giáo, biểu tượng của núi Mai Sơn là trung tâm tu luyện của phái Sư. Như vậy, Kinh buồng và Ngũ đài là hai không gian đối lập nhau với những chức năng khác nhau, một bên đứa trẻ rèn luyện và học tập kinh thư (Kinh buồng), còn một bên đứa trẻ rèn luyện và học tập phép thuật (Ngũ đài).

Hạ Bát đàn và Thượng Bát đàn là hai đàn cúng quan trọng trong nghi lễ cấp sắc, làm chay. Thượng Bát đàn vừa là không gian thiêng của bên Sư giáo, cũng vừa là không gian thiêng của bên Đạo giáo. Trên bức đàn trang trí ngăn làm đôi: bên trái là Đạo giáo, bên phải là Sư giáo. Dấu vết ngăn đôi đó là hàng chữ Văn Võ điện (văn võ song toàn).

Về sân đàn lễ biểu diễn, bên trái dành riêng cho các thầy Đạo giáo biểu diễn – ở đây cũng là không gian bố trí dàn nhạc, kinh thư của Đạo giáo. Bên phải là không gian biểu diễn của Sư giáo, bố trí dàn nhạc và đọc kinh thư của Sư giáo. Không gian Thiên Đình sở dù nhỏ, nằm ở trước cửa nhà nhưng cũng đóng vai trò quan trọng. Đây là không gian thiêng thờ Thần Hoàng làng, các vị thần ở các Phủ về đây đều phải được phép của Thần Hoàng làng mở cửa mới đến được các không gian thiêng khác. Các không gian thiêng của người Dao Làn Tẻn tuy có nhiều kiểu không gian khác nhau, đón các vị thần khác nhau nhưng đều là nơi gặp gỡ của các thần linh. Trong nghi lễ cấp sắc, không thể thiếu bất cứ một không gian thiêng nào.

Trong cuộc sống của người Dao, nhiều thầy cúng khi được hỏi đều nói vũ trụ quan của người Dao là một vũ trụ quan gồm bốn thế giới: Thiên phủ, Dương Gian phủ, Địa phủ, Thủy phủ. Tuy vậy, Thượng Bát đàn của người Dao Làn Tẻn chỉ thấy ghi ba không gian: Ứng Thiên phủ, Hỗn Nguyên phủ, Cửu Long phủ. Ở một số địa phương, sự phân chia ba phủ thành ba tầng hoa văn khác nhau.

Trong kinh thư của người Dao có bộ sách “Thần Mục” ghi đầy đủ tên các vị thần của người Dao. Nhưng thực tế, các vị thần này là chủ yếu thần của Đạo giáo người Hán. Mỗi một quyển đều có tên một số thần của người Dao. Điều đặc biệt là trong các nghi lễ của người Dao như lễ cấp sắc, làm chay, lễ cúng đàn, lễ cầu thọ, v.v., người Dao Làn Tẻn có một hệ thống thần linh khác. Một số tác giả không chú ý về đặc điểm này lại nhầm với hệ thống thần linh của Đạo giáo. Tôn giáo, tín ngưỡng người Dao trước khi bị ảnh hưởng của Đạo giáo còn tồn tại nhiều loại hình tôn giáo nguyên thủy truyền thống như: thờ cúng Bàn Vương, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Đế Mẫu, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, v.v. Sau khi tiếp cận với Đạo giáo, mặc dù các thần linh của Đạo giáo có thâm nhập vào hệ thống thần linh người Dao nhưng đều chịu sự Dao hóa. Do đó, không thể coi hệ thống thần linh người Dao là hệ thống thần linh của Đạo giáo.

Nơi thể hiện nghệ thuật trang trí hoa văn

Nghệ thuật trang trí của người Dao trong lễ cấp sắc được phản ánh ở trang phục thầy cúng, ở trang trí các không gian thiêng. Trong đó, không gian Thượng Bát đàn và Hạ Bát đàn là không gian thể hiện các đồ án trang trí giàu bản sắc dân tộc Dao. Nghệ thuật trang trí ở đây thể hiện ở bố cục của các không gian thiêng. Tùy theo vị trí, mặt phẳng của từng không gian thiêng, các thầy cúng người Dao đã xây dựng bố cục trang trí phù hợp. Trên không gian thiêng Thượng Bát đàn, người Dao bố cục theo kiểu băng dải ngang đan xen với băng dải dọc. Băng dải ngang của Thượng Bát đàn gồm ba dải tượng trưng cho Thiên phủ, Địa phủ, Thủy phủ. Mỗi băng dải tập trung các nội dung chủ yếu được thể hiện bằng các băng dải giấy (dán dọc theo băng dải ngang). Ở băng dải trên cùng ghi tên các vị thần của người Dao như Tam Nguyên, Tam Thanh, Hương Hỏa, Đế Mẫu, Lâm Tào, Hoa Vương, Bàn Hoàng, Ngọc Hoàng, Lôi Hoàng, Tam Giới, Thổ Địa, Gia Tiên, v.v., nhưng các vị thần này lại sắp xếp theo hai băng dải dọc là bên Đạo và bên Sư. Sự đan xen giữa băng dải dọc và băng dải ngang diễn ra khá dày đặc.

Ở tầng thứ hai của Thượng Bát đàn là địa danh các nơi ngự của các vị thánh như Cửu Long phủ, Ứng Thiên phủ, Hỗn Nguyên phủ, Đông Lương đạo, Đăng Diên hội, Hạc Minh Sơn, Báo Hoa hội, Long Hổ Sơn, Tam Nguyên viện, v.v. Ở dải ngang thứ ba là các câu đối ghi về nhiệm vụ, chức năng của từng vị thần được dán ngay gần cửa bát hương thờ các vị thần.

Về màu sắc: các vị thần linh, các nơi ở của thần linh cũng như câu đối của thần linh đều dùng màu đỏ nếu đối tượng là Đạo giáo. Nếu tên các vị thần cũng như nơi ngự, câu đối bên Sư giáo thì dùng màu vàng. Nhưng các dải màu đỏ và vàng thường xuyên đan xen nhau tạo ra màu bổ sung cho nhau. Do đó, tính chất rực rỡ của các băng dải càng thêm nổi bật. Băng dải ranh giới giữa các phủ có nền xanh nhưng họa tiết chủ đạo trên nền xanh lại là màu đỏ hoặc vàng cũng nhằm mục đích làm nổi bật các hình tượng của họa tiết.

Về họa tiết: họa tiết hoa văn chủ đạo ở Thượng Bát đàn là hoa văn quả bầu. Biểu tượng hoa văn này gắn liền với sự tích quả bầu cứu sống hai anh em người Dao. Sau một trận hồng thủy, cả trái đất chỉ còn anh trai và em gái người Dao sống sót nhờ chui vào quả bầu nổi trên mặt nước. Do đó, họa tiết quả bầu trở thành một dải hoa văn chủ đạo nhằm gợi nhớ đến nguồn gốc người Dao. Tương tự như vậy, biểu tượng quả hồ lô – vật thiêng của nhiều tôn giáo cũng trở thành một hoa văn chủ đạo trong các băng dải ngang của Thượng Bát đàn.

Nơi phản ánh không gian giới trong xã hội

Toàn bộ các không gian thiêng của người Dao Làn Tẻn trong lễ cấp sắc, làm chay chỉ dành riêng cho nam giới mà trong đó chủ yếu là thầy cúng và học trò được cấp sắc. Thực chất, đây là không gian của những người làm thầy cúng, giúp việc chuẩn bị làm thầy cúng. Những người không phải là thầy cúng, giúp việc cho thầy cúng, và đứa trẻ được cấp sắc không được vào không gian thiêng này. Khi đi điền dã, chúng tôi muốn đến gần quan sát nghi lễ thì phải ngồi phía sau dàn nhạc nhưng riêng những người nghiên cứu là nữ giới tuyệt đối không được vào không gian thiêng. Nữ giới chỉ đứng ngoài cửa, không bước vào trong nhà, không đến gần Ngũ đài, Thiên Đình sở. Do đó, có thể nhận thấy không gian thiêng là không gian của những thầy cúng/giúp việc thầy cúng là nam giới. Trong các nghi lễ khi có nhân vật phụ nữ diễn xướng thì đó cũng là nam giới mặc trang phục nữ. Hình tượng của nữ giới chỉ mang tính ảo và đều thông qua thầy cúng nam giới.

(*)Ghi chú: Lễ cấp sắc là một nghi lễ của dân tộc Dao. Chàng trai sau khi thụ lễ đã được coi như một người đàn ông trưởng thành hoàn toàn về thể chất cũng như tâm linh.

Tác giả: TS. Trần Hữu Sơn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu ứng dụng văn hóa – du lịch.

Biên tập: Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup (VinIF).

Tài liệu tham khảo:

1. Hoàng Văn Chung (chủ biên, 2022), Đánh thức thần linh trong xã hội hiện đại – Nghiên cứu quá trình tái tạo không gian thiêng ở đồng bằng sông Hồng, Nxb Khoa học Xã hội.

2. Lê Sỹ Giáo (1998), Tục cấp sắc của người Dao và tính giáo dục của nó; trong Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc Gia – Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: hiện tại và tương lai.

3. Phạm Quang Hoan – Hùng Đình Quý (đồng chủ biên, 1999), Văn hóa truyền thống người Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hóa dân tộc.

4. Bàn Tuấn Năng (2018), Lễ cấp sắc của người Dao ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.

5. Phan Ngọc Khuê (2003), Lễ cấp sắc của người Dao Lô Gang ở Lạng Sơn, Nxb Văn hóa thông tin.

6. Lý Hành Sơn (2021), Người Dao Tiền ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội.

7. Đào Thành Thái (1999), “Suy nghĩ về trang trí đám chay của người Dao Tuyển ở Lào Cai”, tạp chí Dân tộc học, số 2, tr. 63 – 69.

7. Hoàng Quý Quyền (2005), Tộc Dao Thôn Điền, Nxb Dân tộc Vân Nam.

8. Hoàng Quý Quyền (2013), Dao tộc chí: Bát hương – Bản sắc văn hóa và dân tộc của dân tộc Dao Vân Nam, Nxb Dân tộc Vân Nam.

9. Từ Tổ Tường (2006), Tôn giáo và xã hội của dân tộc Dao, Công Ty tập đoàn xuất bản Vân Nam.

BÀI MỚI NHẤT

Tạo hình cục bộ liên tục có hỗ trợ nhiệt và rung siêu âm – Công nghệ sáng tạo cho sản phẩm thay thế...

Trong thời kỳ kinh tế số và toàn cầu hóa, các doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức như giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và nhanh chóng đưa sản phẩm ra thị trường. Để giải quyết những vấn đề này, việc áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến kết hợp với kỹ thuật số hiện đại là chìa khóa thành công.Một trong những công nghệ nổi bật hiện nay là công nghệ tạo hình cục bộ liên tục (ISF – Incremental Sheet Forming). Đây là phương pháp gia công kim loại độc đáo, trong đó một tấm kim loại được tạo hình từng bước nhờ chuyển động liên tục của một công cụ chuyên dụng. Điểm mạnh của ISF là khả năng tạo ra các hình dạng phức tạp mà các phương pháp truyền thống khó thực hiện, với độ chính xác cao và chi phí thấp hơn.

Hệ thống IOT theo dõi điện tim thai nhi với cảm biến không tiếp xúc

Trong bối cảnh tỷ lệ thai chết lưu do dị tật tim bẩm sinh ngày càng tăng cao, đặc biệt tại Việt Nam với con số báo động 6% so với mức trung bình toàn cầu 1% [1, 2], việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu. Tỷ lệ sinh non gia tăng, chiếm từ 5 - 9%, đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt để bảo đảm sự sống và phát triển khỏe mạnh của trẻ. Do đó việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở nên vô cùng cấp thiết nhằm giảm thiểu nguy cơ thai chết lưu và sinh non, đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ. Hệ thống thông tin y tế đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ các cơ sở y tế còn hạn chế, giảm tải áp lực cho bệnh viện và đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống khẩn cấp, đồng thời tối ưu hóa năng lực của đội ngũ y bác sĩ. Hơn thế nữa, xây dựng một cơ sở dữ liệu về bà mẹ mang thai người Việt là bước đi quan trọng, giúp tìm hiểu nguyên nhân của những vấn đề sức khỏe của trẻ em, từ đó góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thế hệ tương lai.

Giải pháp công nghệ IoTs/5G sử dụng kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo cho đô thị thông minh

Công nghệ Internet của vạn vật (Internet of Things - IoTs), mạng không dây thế hệ mới 5G, và kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những đổi mới đột phá trong CNTT và truyền thông, và trong các lĩnh vực ứng dụng liên quan. Thành phố thông minh (Smart Cities) là một trong những ứng dụng như vậy, đã thu hút được sự chú ý lớn từ các chính phủ, cộng đồng ngành học thuật và CNTT tại nhiều quốc gia.

Ứng dụng AI trong quan trắc và dự báo ô nhiễm không khí tại Việt Nam

Sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật cùng với quá trình đô thị hóa đã mang tới cho cuộc sống con người sự tiện lợi hơn bao giờ hết. Tuy vậy, nó cũng gây ra những hệ lụy khôn lường, không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai con cháu chúng ta. Đối với Việt Nam, cũng như nhiều nước phát triển khác trên thế giới, “ô nhiễm” bao gồm ô nhiễm không khí, nguồn nước, thực phẩm, tiếng ồn, v.v. là một trong những vấn đề nan giải, được nói tới đã nhiều năm nay. Bài viết này tập trung vào vấn đề ô nhiễm không khí (viết tắt ONKK), mà cụ thể là việc áp dụng các công nghệ cao vào việc quan trắc và dự báo ONKK.

BÀI ĐỌC NHIỀU

Khái quát về mô hình dữ liệu quan hệ

Phần lớn hệ thống cơ sở dữ liệu hiện nay đều được xây dựng bằng mô hình dữ liệu quan hệ. Vậy mô hình...

Supervised Learning và Unsupervised Learning: Khác biệt là gì?

Supervised learning (Học có giám sát) và Unsupervised learning (Học không giám sát) là hai trong số những phương pháp kỹ thuật cơ bản...

Transformer Neural Network – Mô hình học máy biến đổi thế giới NLP

Năm 2017, Google công bố bài báo “Attention Is All You Need” thông tin về Transformer như tạo ra bước ngoặt mới trong lĩnh...

Khái quát về Data Pipeline

Dữ liệu là chìa khóa trong việc khám phá tri thức sâu rộng, nâng cao hiệu quả quy trình và thúc đẩy đưa ra...