Trang chủ Các hoạt động Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hòa: “Khoa học với tôi tự...

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đức Hòa: “Khoa học với tôi tự nhiên như hơi thở”

“Tôi chưa khi nào nghĩ mình sẽ thôi gắn bó với khoa học, bởi lẽ nghiên cứu đã trở thành “một phần của cuộc sống” đối với bản thân tôi, nó tự nhiên như hơi thở. Tôi yêu vật lý và vật liệu từ  khoa học đến tính lãng mạn và triết học của nó. Cũng giống như mọi người con Phú Xuyên của mảnh đất trăm nghề, chúng tôi sẽ sống và cùng phát triển với “nghề”.” – GS.TS. Nguyễn Đức Hòa, nhà khoa học gắn bó cả đời với khoa học vật liệu trải lòng với “nghề” nghiên cứu.

“SỰ LÃNG MẠN CỦA VẬT LÝ LÝ THUYẾT BỔ SUNG CHO TÍNH THỰC TIỄN CỦA VẬT LÝ ỨNG DỤNG”

Trải nghiệm học và làm tại hai ngôi trường nổi tiếng là Trường ĐH Sư phạm HN và ĐH Bách khoa HN, giáo sư hẳn hiểu rõ sự giống và khác giữa “chất” của Sư phạm so với Bách khoa?

Tôi có may mắn đó là được theo học tại hai trường đại học lớn của cả nước, có uy tín cao trong hệ thống giáo dục quốc gia và được nhiều sinh viên lựa chọn. Cả hai trường đều có cơ sở vật chất hiện đại cùng đội ngũ giảng viên chất lượng, tham gia nhiều vào các nghiên cứu quốc tế.

Trường ĐH Sư phạm HN chuyên về đào tạo giáo viên và các ngành liên quan đến giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và quản lý giáo dục. Trong khi đó, ĐH Bách khoa HN tập trung vào việc đào tạo kỹ sư, nhà khoa học và chuyên gia trong các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ nhằm phát triển công nghiệp và công nghệ cao. Từ đó, các định hướng về hoạt động nghiên cứu khoa học của hai đơn vị cũng khác nhau.

Nhưng tôi hiểu cái “chất” ở đây sẽ nghiêng về việc so sánh cá tính đặc trưng của sinh viên hoặc giảng viên tại hai trường, đặc biệt là sinh viên vì họ là những người chiếm số đông nhất và góp phần quan trọng tạo nên chất lượng, sự khác biệt của các trường. Có lẽ sinh viên Bách khoa có chất “bụi”, “phủi”, nôm na là “tự do trong khuôn khổ” hơn so với sinh viên Sư phạm. Ngay khi bước vào cổng trường Sư phạm, chúng ta sẽ nhận ra ngay sự khác biệt, đó là các bạn mang chất mô phạm hơn.

GS. Nguyễn Đức Hòa (hàng 2, thứ 3 từ trái qua) và những người bạn cùng học Trường ĐH Sư phạm HN
GS. Nguyễn Đức Hòa cùng với các đồng nghiệp tại ĐH Bách khoa HN

Là một nhà vật lý theo hướng ứng dụng, tính “lãng mạn” và “triết học” của vật lý lý thuyết có thu hút anh?

Từ góc nhìn của một nhà vật lý ứng dụng, sự thực tiễn và khả thi của lý thuyết là rất quan trọng bởi một lý thuyết có thể mở ra những cách nhìn mới về các hiện tượng vật lý, từ đó dẫn đến những công nghệ mới chưa từng được nghĩ tới. Các khái niệm trừu tượng có thể dẫn đến các ứng dụng thực tiễn trong công nghệ nano, vật liệu mới, hay trong y học và thông tin lượng tử, v.v. Chính vì vậy, tính “lãng mạn” và “triết học” của vật lý lý thuyết không chỉ thu hút mà còn bổ sung cho tính “thực tiễn” của vật lý ứng dụng, tạo nên một hành trình khám phá và sáng tạo đầy thú vị. Khi kết hợp giữa vật lý lý thuyết và vật lý thực nghiệm sẽ mang lại một trải nghiệm toàn diện và phong phú cho các nhà vật lý.

Lúc chúng tôi mới đăng ký theo ngành vật lý, khoảng 70% các bạn chọn vật lý lý thuyết, nhưng sau 3, 4 năm học thì tỷ lệ này giảm xuống và chuyển dần sang vật lý ứng dụng. Có lẽ tính lãng mạn của vật lý lý thuyết sẽ gây ra sự tò mò và thôi thúc những người trẻ, nhưng sự khó, phức tạp và trừu tượng của nó cũng dần cản bước các bạn trên con đường theo đuổi lĩnh vực này.

Tôi vẫn luôn quan tâm và được thôi thúc bởi các vấn đề lý thuyết trong vật lý. Chính vì vậy trong các nghiên cứu gần đây của chúng tôi, đã có sự hợp tác giữa các nhà thực nghiệm và nhà nghiên cứu lý thuyết và tính toán. Lý thuyết hứa hẹn một sự hiểu biết hoàn chỉnh về các nguyên lý cơ bản, cũng như cung cấp một nền tảng toàn diện, từ đó có thể mở ra những cách nhìn mới về các hiện tượng vật lý.

Giáo sư có thể giải thích một cách dễ hiểu về một trong các đối tượng nghiên cứu chủ đạo của mình: vì sao vật liệu nano lại có nhiều tính chất “bất ngờ”?

Vật liệu nano hoạt động ở cấp độ nguyên tử và phân tử, nơi các quy luật vật lý thường gặp ở kích thước lớn không còn áp dụng được, bao gồm các hiệu ứng kích thước ở thang đo nano, sự khác biệt về tỉ lệ bề mặt/thể tích, hiệu ứng lượng tử và sự tương tác mạnh mẽ giữa các nguyên tử ở kích thước nano. Từ đó tạo ra các tính chất vật lý, hóa học, và sinh học mới lạ và mở ra nhiều tiềm năng ứng dụng rộng lớn. Đó là sự thú vị của vật liệu nano trong nhiều lĩnh vực như từ y học, điện tử, năng lượng, v.v.

Một ví dụ đặc sắc đó là nguyên tố vàng (ký hiệu là Au): khi ở kích thước lớn nó có màu vàng và không tan trong nước; nhưng khi chia nhỏ xuống kích thước nano, nó có thể có màu đỏ, xanh, hoặc màu khác tùy thuộc vào kích thước hạt. Các chấm lượng tử là các hạt nano bán dẫn có tính chất quang học đặc biệt: khi bị kích thích, chúng phát ra ánh sáng có màu sắc phụ thuộc vào kích thước hạt. Chấm lượng tử được dùng trong màn hình TV (QLED), đèn LED, và các ứng dụng y học như chụp ảnh đánh dấu huỳnh quang để chẩn đoán bệnh.

Vật liệu 1D, 2D là gì? Chẳng phải các vật liệu chúng ta thấy được đều là 3D?

Thế giới chúng ta cảm nhận được là thế giới không gian 3D. Khi kích thước 1 chiều lớn hơn rất nhiều so với 2 chiều còn lại thì vật thể có thể coi như là 1 chiều – tức là vật liệu 1D; hoặc khi kích thước 2 chiều lớn hơn rất nhiều so với kích thước 1 chiều còn lại thì vật thể xem như là 2 chiều – tức là 2D. Đó là một phép so sánh gần đúng để dễ hiểu. Ở cấp độ nano, các vật liệu 1D và 2D có nhiều tính chất độc đáo vì có cấu trúc nguyên tử được giới hạn trong 1 hoặc 2 chiều.

Một vật liệu 1D như ống nano cacbon (các ống hình trụ rỗng có đường kính <100 nanomet và chiều dài có thể lên đến vài micromet hoặc hơn) có độ bền kéo riêng phần cực cao và tính dẫn điện, dẫn nhiệt tốt. Một dây nano (có đường kính < 100 nm và tỷ lệ chiều dài/đường kính rất lớn, có thể làm từ nhiều loại vật liệu khác nhau như kim loại, bán dẫn, và oxit kim loại, v.v.) có thể được ứng dụng trong các thiết bị cảm biến, hay linh kiện điện tử.

Một vật liệu 2D như Graphene (có chiều dày một lớp nguyên tử cacbon sắp xếp trong mạng lưới hình tổ ong) có tính chất cơ học rất bền, dẫn điện và dẫn nhiệt tốt, và là nền tảng cho nhiều nghiên cứu và ứng dụng trong điện tử, năng lượng, và điện cực trong suốt, v.v.

Với công nghệ nano, các vật liệu 1D và 2D đang ngày càng phát triển và có những ứng dụng đa dạng, góp phần mở rộng hiểu biết của con người về thế giới vật chất và hứa hẹn những tiến bộ công nghệ đột phá trong tương lai.

GS. Nguyễn Đức Hòa và các đồng nghiệp tại ITIMS
Cùng các đồng nghiệp ITIMS tại Ba Vì

Phải chăng càng chia nhỏ các hạt vật liệu ra thì lại càng nhiều bất ngờ, càng nhiều tiềm năng ứng dụng? Nếu chia nhỏ hạt đến tận cùng thì ta còn lại gì?

Câu hỏi này rất thú vị và giúp làm sáng tỏ một số nguyên lý cơ bản trong khoa học vật liệu và công nghệ nano. Quả thực, khi chúng ta chia nhỏ các hạt vật liệu đến kích thước nano, nhiều tính chất mới và bất ngờ xuất hiện. Khi tiếp tục chia nhỏ hạt, chúng ta sẽ tiếp cận cấp độ cơ bản nhất của vật chất, tức là các nguyên tử và các hạt dưới nguyên tử như proton, neutron, quark, lepton, và boson – chúng hiện đang là những đơn vị cấu thành nhỏ nhất của vật liệu. Tuy nhiên trong tương lai, có thể nhiều các hạt cơ bản hơn sẽ được tìm thấy, hoặc được dự đoán tồn tại. Điều này chính là những động lực thôi thúc các nhà khoa học bởi khoa học không có điểm tận cùng. Đây cũng là những địa hạt của sự lãng mạn, bay bổng và triết học trong vật lý lý thuyết.

“KHẢ NĂNG CHẾ TẠO VÀ ĐIỀU KHIỂN VẬT LIỆU NANO LÀ BÍ QUYẾT”

Hẳn phải có những người thầy, những người truyền cảm hứng về vật lý, về khoa học vật liệu cho giáo sư?

Tôi may mắn được học học tập và làm việc dưới sự hướng dẫn của các thầy – các nhà khoa học uy tín như GS.TSKH. Thân Đức Hiền (nguyên Viện trưởng ITIMS), GS.TS.NGND. Nguyễn Đức Chiến (nguyên Bí thư Đảng ủy ĐH Bách khoa HN, nguyên Phó viện trưởng viện ITIMS), GS. Dojin Kim (ĐH Quốc gia Chungnam, Hàn Quốc), và GS. Sherif A. El-safty (Viện NIMS, Nhật Bản). Họ là những người đã dẫn dắt và truyền cảm ứng cho tôi trong sự nghiệp khoa học công nghệ. Tôi cũng may mắn được học tập và làm việc tại các trường đại học lớn của cả nước, nơi tôi được tiếp thu cả về chuyên môn và niềm đam mê nghiên cứu. Tôi cũng may mắn được làm việc với những đồng nghiệp, những bạn sinh viên và học viên tại ĐH Bách khoa HN, những người người truyền cảm hứng cho tôi trong cuộc sống.

GS.TS. Nguyễn Đức Hòa (trái) cùng người thầy truyền cảm hứng cho anh – GS.TS.NGND. Nguyễn Đức Chiến.

Từ thời cổ đại người ta đã phát hiện ra các hạt nano có trong nhiều đồ tạo tác. Bí quyết gì làm cho vật liệu nano trở nên quan trọng với xã hội hiện đại?

Vật liệu nano trở nên vô cùng quan trọng với xã hội hiện nay không chỉ vì kích thước nhỏ bé của chúng, mà chủ yếu do những tính chất độc đáo và tiềm năng ứng dụng rộng rãi mà chúng mang lại. Mặc dù các hạt nano đã tồn tại từ thời cổ đại (thí dụ: Chiếc cốc Lycurgus sẽ có màu sắc khác nhau khi nhìn dưới ánh sáng phản xạ hay truyền qua), sự hiểu biết và khả năng kiểm soát của chúng đã tiến triển vượt bậc trong vài thập kỷ gần đây, mở ra nhiều ứng dụng mới và mang tính đột phá trong nhiều lĩnh vực.

Như vậy, khả năng chế tạo và kiểm soát, điều khiển vật liệu nano chính là bí quyết. Công nghệ nano không chỉ mở ra những tiềm năng mới cho các ứng dụng hiện tại mà còn tạo ra những cơ hội đột phá trong tương lai, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế và xã hội toàn cầu.

Với vật liệu siêu dẫn, xin được hỏi lại giáo sư câu hỏi cũ: anh có thể giải thích một cách dễ hiểu về vật liệu này và các ứng dụng của nó?

Vật liệu siêu dẫn, có thể hiểu một cách đơn giản, là vật liệu mà khi ta cho một dòng điện chạy trong nó thì dòng điện sẽ tồn tại mãi mãi mà không bị suy giảm, không bị mất năng lượng. Vật liệu siêu dẫn có rất nhiều ứng dụng khác nhau trong các lĩnh vực như y tế, truyền tải điện, tàu đệm từ, máy gia tốc hạt, v.v. Hiện nay thiết bị phổ biến nhất sử dụng vật liệu siêu dẫn đó là các máy cộng hưởng từ (MRI) sử dụng nam châm siêu dẫn để tạo ra từ trường mạnh cần thiết cho việc chụp ảnh chi tiết bên trong cơ thể. Nhờ có vật liệu siêu dẫn, máy MRI hoạt động hiệu quả hơn và cung cấp hình ảnh chất lượng cao hơn. Gần đây, Trung Quốc đã thử nghiệm thành công tàu chạy trên đệm từ của cuộn dây siêu dẫn trong ống chân không đạt được tốc độ lên đến trên 623 km/h (tốc độ thiết kế có thể đạt tới 1.000 km/h).

Có lẽ thách thức lớn nhất hiện nay ngăn cản khả năng thương mại hóa và sử dụng rộng rãi của vật liệu siêu dẫn trong đại chúng là nhiệt độ làm việc rất thấp. Tính siêu dẫn yêu cầu sử dụng các hệ thống làm lạnh phức tạp và tốn kém, chẳng hạn như dùng Hê-li lỏng (-269oC) hay Ni-tơ lỏng (-196oC) để duy trì nhiệt độ thấp. Ngoài ra còn có các thách thức khác như chi phí sản xuất cao, đồ bền cơ học kém, công nghệ chế tạo phức tạp, khả năng duy trì trạng thái siêu dẫn trong từ trường mạnh, hay đòi hỏi trạng thái siêu dẫn dưới áp suất cao.

Trao đổi cùng các đồng nghiệp trong phòng thí nghiệm

QUYẾT NGHIÊN CỨU ĐỘT PHÁ, CHẤP NHẬN TÍNH RỦI RO

Những bước phát triển mới theo hướng ứng dụng vật liệu nano trong thực tế của giáo sư?

Sau khoảng 10 năm nghiên cứu cơ bản, với những thành quả nhất định trong lĩnh vực vật liệu nano và cảm biến, nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu vật liệu nano tích hợp ứng dụng trong IoT (Internet of Things – Internet kết nối vạn vật) cho phân tích hơi thở chẩn đoán bệnh. Đây thực sự là một bước phát triển và thể hiện rõ tinh thần liên ngành trong nghiên cứu khoa học hiện đại. Sự kết hợp giữa vật liệu nano, linh kiện điện tử, và IoT không chỉ mở ra những tiềm năng mới cho chẩn đoán bệnh mà còn đóng góp vào việc phát triển các công nghệ y tế tiên tiến, hay nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, môi trường, an ninh v.v.

Ý tưởng của chúng tôi hình thành từ năm 2009 khi tham khảo công trình nghiên cứu trên tạp chí Nature Nanotechnology do Hosam Haick (Israel) đứng đầu công bố về kết quả “Chẩn đoán ung thư phổi qua hơi thở bằng hạt nano vàng”. Nghiên cứu của nhóm này chỉ ra bằng cách so sánh kết quả phân tích hơi thở của người khỏe mạnh và bệnh nhân ung thư phổi cho phép nhận dạng được bệnh nhân ung thư phổi.

Những nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi đã tạo ra được cảm biến khí bán dẫn sử dụng vật liệu nano có thể cho độ đáp ứng tốt hơn, giới hạn phát hiện nồng độ khí thấp hơn so với nano vàng, và hoàn toàn có thể phát triển để ứng dụng trong phân tích hơi thở để sàng lọc và chẩn đoán bệnh. Đây là hướng nghiên cứu ứng dụng trong một dự án đã được Quỹ đổi mới sáng tạo Vingroup (VinIF) tài trợ vào năm 2019. Một trong những động lực để chúng tôi tự tin đề xuất dự án đầy thách thức này đến Quỹ VinIF là tính “chấp nhận rủi ro” của Quỹ. Nhờ cơ chế tiến bộ ấy, thay vì đề xuất một hướng nghiên cứu an toàn, chắc chắn ra sản phẩm, thì chúng tôi quyết tâm làm một đề tài có tính đột phá, dù tiềm ẩn tính rủi ro cao.

Nguyên lý của nghiên cứu này là khi con người mắc phải một số bệnh như ung thư phổi, hen suyễn, tiểu đường, v.v. sẽ ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa chất trong cơ thể, từ đó tạo ra trong hơi thở người bệnh những chất khí đặc trưng (các chỉ dấu sinh học) với các nồng độ khác nhau. Các chỉ dấu sinh học này sẽ thay đổi khác nhau đối với từng loại bệnh. Cảm biến khí được thiết kế để nhận diện và phân tích các chỉ dấu sinh học, giúp phát hiện sớm bệnh mà không cần các phương pháp xâm lấn như sinh thiết.

Trao đổi cùng chuyên gia trong một sự kiện

Làn sóng vi mạch, chip bán dẫn đang trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Theo giáo sư, ta nên tận dụng làn sóng này theo hướng nào?

Đúng vậy, chủ đề này đang rất “nóng” và là trung tâm của nhiều nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại. Sự tăng trưởng và tiến bộ trong lĩnh vực này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều ngành công nghiệp khác.

Nhưng nói thật là đội ngũ làm về bán dẫn và vi mạnh của chúng ta còn quá mỏng, với trình độ chuyên môn cũng còn hạn chế. Ngoài ra, tại Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa có một trung tâm nghiên cứu về bán dẫn đủ mạnh, và cũng thiếu một hệ sinh thái về bán dẫn. Theo tôi, Việt Nam nên tận dụng làn sóng phát triển công nghệ bán dẫn và vi mạch bằng cách tập trung vào các lĩnh vực ngách có tiềm năng cạnh tranh, đầu tư vào R&D và đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng hệ sinh thái công nghệ và công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ vào các ngành công nghiệp trọng điểm. Những chiến lược này sẽ giúp Việt Nam phát triển bền vững và cạnh tranh hiệu quả trong bối cảnh công nghệ toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng.

SỐNG, GẮN BÓ VÀ CÙNG PHÁT TRIỂN VÀ ĐỒNG HÀNH VỚI “NGHỀ”

Giáo sư nhận thấy sự chú ý của sinh viên dành cho ngành khoa học vật liệu những năm gần đây thế nào?

Khoa học vật liệu là nền tảng của nhiều tiến bộ công nghệ. Như đã biết, trong các cuộc cách mạng công nghiệp, sự tiến bộ về vật liệu đã đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy công nghệ và thay đổi cách thức sản xuất, giao thông, và đời sống hàng ngày. Hiện nay, đa số các bạn sinh viên thường quan tâm đến các lĩnh vực như công nghệ thông tin, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo, v.v. mà chưa thực sự chú trọng đến lĩnh vực khoa học vật liệu. Điều này có thể do nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của khoa học vật liệu còn hạn chế, cũng như các cơ hội nghề nghiệp của người học chưa được phổ biến rõ ràng, cần một sự truyền thông hiệu quả hơn. Song song với đó cũng cần nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng cơ hội nghiên cứu và việc làm, khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp trong lĩnh vực khoa học vật liệu.

Chính phủ đã luôn thể hiện sự quan tâm đáng kể đối với lĩnh vực khoa học vật liệu thông qua các chính sách, chương trình hỗ trợ và đầu tư cụ thể, như chương trình KC02, Quỹ NAFOSTED, đầu tư vào các viện nghiên cứu, các trường đại học, v.v. Tuy nhiên, để khai thác hết tiềm năng của lĩnh vực này, cần tiếp tục tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu và thúc đẩy hợp tác quốc tế.

Anh đánh giá thế nào về việc hợp tác giữa ĐH Bách khoa HN nói riêng, Việt Nam nói chung với các nhà vật liệu quốc tế?

Lĩnh vực khoa học vật liệu của Việt Nam đã trải qua hơn hơn 30 năm hình thành và phát triển. Trong hơn 30 năm qua, các nhà khoa học của ĐH Bách khoa HN nói riêng và Việt Nam nói chung đã tích cực hợp tác với các chuyên gia trên thế giới trong đào tạo và nghiên cứu khoa học vật liệu. Hiện nay chúng ta đang có đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam thành danh, cùng đông đảo các du học sinh trong lĩnh vực khoa học vật liệu hiện đang học tập, công tác tại các nước tiên tiến. Nếu có chính sách tốt để hợp tác và khai thác đội ngũ này, chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy chia sẻ kiến thức và công nghệ tiên tiến, mở rộng mạng lưới, tăng cường chất lượng nghiên cứu, góp phần thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong nước.

Tôi rất hy vọng chính phủ có sự đầu tư về trang thiết bị, môi trường nghiên cứu trong nước tốt hơn nữa để có đủ sức thu hút các nhà khoa học trẻ từ nước ngoài về nước nghiên cứu. Tôi còn nhớ năm 2011 khi từ Nhật Bản trở về Việt Nam, tôi may mắn được nhận sự tài trợ nghiên cứu của Quỹ NAFOSTED. Sau này, các quỹ nghiên cứu của doanh nghiệp như Quỹ VinIF cũng hỗ trợ tích cực các hoạt động nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Nếu có sự đầu tư và chú trọng đúng mức vào các yếu tố này, môi trường nghiên cứu trong nước hoàn toàn có khả năng thu hút và giữ chân các nhà khoa học trẻ, giúp họ phát huy tối đa năng lực và đóng góp cho đất nước.

Là người con của mảnh đất trăm nghề Phú Xuyên. Các cụ nói “một nghề cho chín còn hơn chín nghề”. Anh dự định gắn bó với khoa học vật liệu đến khi nào?

Tôi vẫn thường chia sẻ với các bạn sinh viên: “Hãy lựa chọn những công việc mình đam mê và yêu thích, và “cháy” hết với đam mê đó thì sớm hay muộn thành công sẽ đến với bạn”. Tôi chưa khi nào nghĩ mình sẽ thôi gắn bó với khoa học, bởi lẽ nghiên cứu đã trở thành “một phần của cuộc sống” đối với bản thân tôi, nó tự nhiên như hơi thở. Tôi yêu vật lý và vật liệu từ tính khoa học đến tính lãng mạn và triết học của nó. Cũng giống như mọi người con Phú Xuyên của mảnh đất trăm nghề, chúng tôi sẽ sống và cùng phát triển với “nghề”.

Xin cảm ơn giáo sư!

GS.TS. Nguyễn Đức Hòa tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2000, lấy bằng Thạc sĩ chuyên ngành Khoa học vật liệu tại Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2003 và hoàn thành Luận án Tiến sĩ tại Đại học Quốc Gia Chungnam (Hàn Quốc) năm 2009. Hướng nghiên cứu chủ đạo hiện nay của GS. Nguyễn Đức Hòa bao gồm: vật liệu nano, vật liệu quý hiếm, ống carbon nano và composite, vật liệu bán dẫn kim loại oxit, cảm biến khí từ vật liệu nano, gốm siêu dẫn, các linh kiện cao cấp. Giáo sư đã công bố trên 100 bài báo quốc tế uy tín SCI với tổng trích dẫn hơn 6.000 lần và có chỉ số H-index là 47, đồng thời là giáo sư trẻ nhất ngành Vật lý năm 2019. Giáo sư sở hữu 1 sáng chế quốc tế, 3 bằng sáng chế/giải pháp hữu ích trong nước và hiện có 7 bằng sáng chế khác đang trong quá trình xét duyệt. GS. Nguyễn Đức Hòa đạt nhiều giải thưởng uy tín về khoa học công nghệ như Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2021, Tiến sĩ danh dự ĐH Uppsala năm 2023. Hiện nay, GS. Nguyễn Đức Hòa là Phó hiệu trưởng Trường Vật liệu, ĐH Bách Khoa Hà Nội.


GS. Nguyễn Đức Hòa nhận bằng Tiến sĩ danh dự tại Đại học Uppsala (Thụy Điển) và được vinh danh bằng đại bác

GS Nguyễn Đức Hòa nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2021

Tác giả: Nguyên Khê – Thủy Lê

Ảnh: NVCC

Quỹ Đổi mới sáng tạo Vingroup tổng hợp.

BÀI MỚI NHẤT

Tạo hình cục bộ liên tục có hỗ trợ nhiệt và rung siêu âm – Công nghệ sáng tạo cho sản phẩm thay thế...

Trong thời kỳ kinh tế số và toàn cầu hóa, các doanh nghiệp đang đối mặt với nhiều thách thức như giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và nhanh chóng đưa sản phẩm ra thị trường. Để giải quyết những vấn đề này, việc áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến kết hợp với kỹ thuật số hiện đại là chìa khóa thành công.Một trong những công nghệ nổi bật hiện nay là công nghệ tạo hình cục bộ liên tục (ISF – Incremental Sheet Forming). Đây là phương pháp gia công kim loại độc đáo, trong đó một tấm kim loại được tạo hình từng bước nhờ chuyển động liên tục của một công cụ chuyên dụng. Điểm mạnh của ISF là khả năng tạo ra các hình dạng phức tạp mà các phương pháp truyền thống khó thực hiện, với độ chính xác cao và chi phí thấp hơn.

Hệ thống IOT theo dõi điện tim thai nhi với cảm biến không tiếp xúc

Trong bối cảnh tỷ lệ thai chết lưu do dị tật tim bẩm sinh ngày càng tăng cao, đặc biệt tại Việt Nam với con số báo động 6% so với mức trung bình toàn cầu 1% [1, 2], việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu. Tỷ lệ sinh non gia tăng, chiếm từ 5 - 9%, đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt để bảo đảm sự sống và phát triển khỏe mạnh của trẻ. Do đó việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở nên vô cùng cấp thiết nhằm giảm thiểu nguy cơ thai chết lưu và sinh non, đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ. Hệ thống thông tin y tế đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ các cơ sở y tế còn hạn chế, giảm tải áp lực cho bệnh viện và đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống khẩn cấp, đồng thời tối ưu hóa năng lực của đội ngũ y bác sĩ. Hơn thế nữa, xây dựng một cơ sở dữ liệu về bà mẹ mang thai người Việt là bước đi quan trọng, giúp tìm hiểu nguyên nhân của những vấn đề sức khỏe của trẻ em, từ đó góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thế hệ tương lai.

Giải pháp công nghệ IoTs/5G sử dụng kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo cho đô thị thông minh

Công nghệ Internet của vạn vật (Internet of Things - IoTs), mạng không dây thế hệ mới 5G, và kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những đổi mới đột phá trong CNTT và truyền thông, và trong các lĩnh vực ứng dụng liên quan. Thành phố thông minh (Smart Cities) là một trong những ứng dụng như vậy, đã thu hút được sự chú ý lớn từ các chính phủ, cộng đồng ngành học thuật và CNTT tại nhiều quốc gia.

Ứng dụng AI trong quan trắc và dự báo ô nhiễm không khí tại Việt Nam

Sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật cùng với quá trình đô thị hóa đã mang tới cho cuộc sống con người sự tiện lợi hơn bao giờ hết. Tuy vậy, nó cũng gây ra những hệ lụy khôn lường, không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai con cháu chúng ta. Đối với Việt Nam, cũng như nhiều nước phát triển khác trên thế giới, “ô nhiễm” bao gồm ô nhiễm không khí, nguồn nước, thực phẩm, tiếng ồn, v.v. là một trong những vấn đề nan giải, được nói tới đã nhiều năm nay. Bài viết này tập trung vào vấn đề ô nhiễm không khí (viết tắt ONKK), mà cụ thể là việc áp dụng các công nghệ cao vào việc quan trắc và dự báo ONKK.

BÀI ĐỌC NHIỀU

Khái quát về mô hình dữ liệu quan hệ

Phần lớn hệ thống cơ sở dữ liệu hiện nay đều được xây dựng bằng mô hình dữ liệu quan hệ. Vậy mô hình...

Supervised Learning và Unsupervised Learning: Khác biệt là gì?

Supervised learning (Học có giám sát) và Unsupervised learning (Học không giám sát) là hai trong số những phương pháp kỹ thuật cơ bản...

Transformer Neural Network – Mô hình học máy biến đổi thế giới NLP

Năm 2017, Google công bố bài báo “Attention Is All You Need” thông tin về Transformer như tạo ra bước ngoặt mới trong lĩnh...

Khái quát về Data Pipeline

Dữ liệu là chìa khóa trong việc khám phá tri thức sâu rộng, nâng cao hiệu quả quy trình và thúc đẩy đưa ra...