Trang chủ Các hoạt động Cần tạo điều kiện và cơ hội ngang bằng cho các nhà...

Cần tạo điều kiện và cơ hội ngang bằng cho các nhà khoa học nữ trẻ

(Báo Khoa học và Phát triển) – Những năm gần đây, số nhà khoa học nữ trẻ đang ngày càng tăng và gần tiệm cận mức cân bằng với nam giới, tuy nhiên lên đến những trình độ cao hơn thì mức độ chênh lệch giữa tỷ lệ nam và nữ bắt đầu rõ rệt.

GS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học tự nhiên và cũng là Hiệu trưởng Trường Phổ thông Năng khiếu, ĐH Quốc gia TPHCM, chia sẻ tại sự kiện do VINIF tổ chức.

Vào ngày 7/3, sự kiện Gặp gỡ Mùa Xuân đầu tiên trong năm 2024, cũng là sự kiện đầu tiên Quỹ đổi mới sáng tạo VINIF tổ chức tại phía Nam, đã diễn ra tại Đại học Khoa học tự nhiên – ĐH Quốc gia TPHCM.

Phát biểu khai mạc sự kiện, PGS.TSKH. Phan Thị Hà Dương, Viện Toán học – VAST, Giám đốc điều hành Quỹ VINIF, chia sẻ: “Những năm qua Quỹ đổi mới sáng tạo VINIF đã tổ chức ở Hà Nội nhiều sự kiện như các bài giảng đại chúng, các tọa đàm, các buổi gặp gỡ với các nhà khoa học các bạn trẻ. Để đánh dấu sự khởi đầu của những giao lưu với các bạn trong Nam, chúng tôi muốn thực hiện vào mùa Xuân – mùa khởi đầu của một năm mới và với chủ đề người phụ nữ, vì chính những người phụ nữ đã mang đến những khởi đầu cho cuộc sống của mỗi chúng ta.”

PGS. Phan Thị Hà Dương cho biết, theo tìm hiểu của VINIF, số các bạn trẻ là nữ theo khoa học đang ngày càng tăng và gần tiệm cận mức cân bằng với nam giới, tuy nhiên lên đến những trình độ cao hơn thì mức độ tăng có phần khiêm tốn hơn. Năm 2014, tỷ lệ nữ thạc sĩ được công nhận là 43%, nữ tiến sĩ và tiến sĩ khoa học được công nhận là 21% trong tổng số các thạc sĩ, tiến sĩ và tiến sĩ khoa học của năm đó. Đến năm 2019, tỷ lệ nữ thạc sĩ đạt 44,2%, nữ tiến sĩ đạt 28%. Trong tương lai, ước tính đến năm 2025, số nữ thạc sĩ sẽ chạm mốc ít nhất 50%, nữ tiến sĩ chạm mốc ít nhất 30% trên tổng số các thạc sĩ và tiến sĩ mỗi năm.


Tuy nhiên ở trình độ giáo sư, phó giáo sư, tỷ lệ chênh lệch giữa nam và nữ vô cùng rõ rệt. Tính từ 1980 tới 2016, cả nước có gần 11 ngàn giáo sư, phó giáo sư. Tỉ lệ giáo sư, phó giáo sư là nam giới chiếm đa số – tới 83,5%, trong khi nữ giới chiếm 16,5%. Tỷ lệ nữ giáo sư, phó giáo sư giai đoạn 2012-2016 là 24,6%. Năm 2017 là năm có tỷ lệ giáo sư, phó giáo sư nữ được phong cao kỷ lục so với giai đoạn trước, chiếm khoảng 29% tổng số.

“Qua đó, ta có thể thấy đã nhiều bạn nữ mong muốn theo đuổi đam mê nghiên cứu, nhưng đến một trình độ và lứa tuổi nào đó thì điều kiện để đi xa hơn đã giảm đi. Chính vì thế, cần có các chính sách để tạo điều kiện hơn nữa cho các nhà khoa học nữ trẻ, trong đó không chỉ tạo điều kiện ngang bằng mà thậm chí phải tạo cơ hội ngang bằng, có tính đến những khó khăn tự nhiên sinh ra cho người phụ nữ”, PGS. Phan Thị Hà Dương nhận định.

Là một trong những nhà khoa học nữ đang làm việc trong lĩnh vực vật lý, PGS.TS. Phan Thị Ngọc Loan (Khoa Vật lý, Trường ĐH Sư phạm TPHCM) cho rằng mặc dù số lượng nữ trong ngành vật lý còn ít, nhưng tính cạnh tranh so với các đồng nghiệp nam lại khá đồng đều. Phụ nữ có sự kiên trì, bền bỉ, kỷ luật trong công việc, đặc biệt phù hợp khi theo đuổi lĩnh vực nghiên cứu.

Bản thân PGS Loan cũng là một nhà khoa học kiên trì và bền bỉ. Sau khi lấy bằng tiến sĩ vật lý năm 2012 tại Trường Đại học Quốc gia Tula, Liên bang Nga, chị chuyên tâm, nghiên cứu về quá trình vật lý khi laser mạnh tương tác với vật chất, theo dõi các quá trình động lực học với độ phân giải thời gian cao. Suốt nhiều năm, chị đã tham gia và làm chủ nhiệm nhiều dự án, đề tài các cấp, và là đồng chủ nhiệm một dự án khoa học công nghệ được Quỹ VINIF tài trợ vào năm 2021. Năm 2011, PGS đạt giải Nhất về nghiên cứu khoa học do Viện Liên hiệp Hạt nhân Dubna, Liên Bang Nga trao tặng. Cho tới nay, chị đã công bố 41 bài báo khoa học, trong đó có 23 bài trên các tạp chí uy tín quốc tế thuộc hệ thống SCEI với trên 10 bài hạng Q1.

Dưới góc độ là Phó hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học tự nhiên và Hiệu trưởng Trường Phổ thông Năng khiếu, ĐH Quốc gia TPHCM, GS. Nguyễn Thị Thanh Mai cho biết bà quan sát thấy trong một số ngành như sinh học, hóa học trong trường, tỷ lệ nữ thường cao hơn nam, bù lại với tỷ lệ nữ thấp hơn trong một số ngành như toán học, vật lý học.


Các bài giảng đại chúng

Trong khuôn khổ sự kiện, GS.TS. Nguyễn Thị Thanh Mai đã mang đến bài giảng với chủ đề “Dược liệu có nguồn gốc thiên nhiên – cơ hội tại Việt Nam từ góc nhìn của một nhà khoa học nữ”. Bà cho biết Việt Nam có rất nhiều ưu điểm để phát triển ngành dược liệu, như có dân số lớn, có thảm thực vật phong phú với trên 3.000 loài có thể dùng làm dược liệu, v.v.

Tuy nhiên, trên thực tế, ngành dược của nước ta chưa thực sự phát triển, do đa số dược liệu quý hiếm chưa quy hoạch được vùng trồng, trên 90% nguyên liệu hóa dược phải nhập khẩu, các nghiên cứu phát triển thuốc còn hạn chế. Từ đó, theo bà, chiến lược phát triển ngành dược liệu tại Việt Nam cần tập trung vào nghiên cứu phát triển hoạt chất mới (thuốc mới), cải tiến các hoạt chất cũ, đầu tư trang thiết bị phục vụ R&D và quy hoạch vùng trồng dược liệu đạt chuẩn. GS cũng giới thiệu một số thành tựu nổi bật về hóa dược tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên như các nghiên cứu về các hoạt chất từ nguồn dược liệu Việt Nam nhằm điều trị bệnh, đi từ các loại thực vật phổ biến như cúc hoa trắng, sa-kê, xoài, tô mộc, ngải bún, cà gai leo, v.v.

Ngoài ra, với góc nhìn sâu sắc về văn hóa Chăm của một nhà nghiên cứu trên 30 năm, PGS.TS. Trương Văn Món (Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG HCM), trong bài giảng “Giới (genger) trong kỷ nguyên số: Nghiên cứu trường hợp phụ nữ Chăm trong xã hội mẫu hệ” đã mở ra cho các khán giả những trang thông tin đầy bất ngờ về dân tộc Chăm – một dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Ông cho biết phụ nữ Chăm luôn được tôn vinh, có địa vị, quyền lực cao nhất trong gia đình và xã hội. Để làm rõ điều này, ông đã minh hoạ bằng các câu chuyện về cách con gái Chăm chủ động đi hỏi chồng; những nghi lễ vô cùng đặc biệt trong đám cưới; sau hôn nhân, chồng chuyển sang bên nhà vợ sinh sống; con sinh ra theo họ mẹ; con gái út thừa kế tài sản, nuôi cha mẹ già và thờ cúng tổ tiên v.v.

Bài viết trên Báo Khoa học và Phát triển.

BÀI MỚI NHẤT

Hệ thống IOT theo dõi điện tim thai nhi với cảm biến không tiếp xúc

Trong bối cảnh tỷ lệ thai chết lưu do dị tật tim bẩm sinh ngày càng tăng cao, đặc biệt tại Việt Nam với con số báo động 6% so với mức trung bình toàn cầu 1% [1, 2], việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu. Tỷ lệ sinh non gia tăng, chiếm từ 5 - 9%, đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt để bảo đảm sự sống và phát triển khỏe mạnh của trẻ. Do đó việc theo dõi sức khỏe thai nhi trở nên vô cùng cấp thiết nhằm giảm thiểu nguy cơ thai chết lưu và sinh non, đảm bảo sự phát triển toàn diện cho trẻ. Hệ thống thông tin y tế đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ các cơ sở y tế còn hạn chế, giảm tải áp lực cho bệnh viện và đảm bảo xử lý kịp thời các tình huống khẩn cấp, đồng thời tối ưu hóa năng lực của đội ngũ y bác sĩ. Hơn thế nữa, xây dựng một cơ sở dữ liệu về bà mẹ mang thai người Việt là bước đi quan trọng, giúp tìm hiểu nguyên nhân của những vấn đề sức khỏe của trẻ em, từ đó góp phần cải thiện chất lượng chăm sóc sức khỏe cho thế hệ tương lai.

Giải pháp công nghệ IoTs/5G sử dụng kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo cho đô thị thông minh

Công nghệ Internet của vạn vật (Internet of Things - IoTs), mạng không dây thế hệ mới 5G, và kỹ thuật xử lý dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI) đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những đổi mới đột phá trong CNTT và truyền thông, và trong các lĩnh vực ứng dụng liên quan. Thành phố thông minh (Smart Cities) là một trong những ứng dụng như vậy, đã thu hút được sự chú ý lớn từ các chính phủ, cộng đồng ngành học thuật và CNTT tại nhiều quốc gia.

Ứng dụng AI trong quan trắc và dự báo ô nhiễm không khí tại Việt Nam

Sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật cùng với quá trình đô thị hóa đã mang tới cho cuộc sống con người sự tiện lợi hơn bao giờ hết. Tuy vậy, nó cũng gây ra những hệ lụy khôn lường, không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai con cháu chúng ta. Đối với Việt Nam, cũng như nhiều nước phát triển khác trên thế giới, “ô nhiễm” bao gồm ô nhiễm không khí, nguồn nước, thực phẩm, tiếng ồn, v.v. là một trong những vấn đề nan giải, được nói tới đã nhiều năm nay. Bài viết này tập trung vào vấn đề ô nhiễm không khí (viết tắt ONKK), mà cụ thể là việc áp dụng các công nghệ cao vào việc quan trắc và dự báo ONKK.

Công nghệ chế tạo dạng bồi đắp – In 3D: công nghệ lõi trong nền công nghiệp 4.0

Trong nền kinh tế số và bối cảnh toàn cầu hóa, bài toán đặt ra cho các doanh nghiệp là làm sao kiểm soát tốt chi phí và cải thiện chất lượng sản phẩm, đồng thời đẩy nhanh quá trình phát triển và đưa sản phẩm ra thị trường. Điều này đòi hỏi công nghệ sản xuất mới đi kèm với sự phát triển của công nghệ số và áp dụng chúng vào quy trình sản xuất công nghiệp.

BÀI ĐỌC NHIỀU

Khái quát về mô hình dữ liệu quan hệ

Phần lớn hệ thống cơ sở dữ liệu hiện nay đều được xây dựng bằng mô hình dữ liệu quan hệ. Vậy mô hình...

Supervised Learning và Unsupervised Learning: Khác biệt là gì?

Supervised learning (Học có giám sát) và Unsupervised learning (Học không giám sát) là hai trong số những phương pháp kỹ thuật cơ bản...

Transformer Neural Network – Mô hình học máy biến đổi thế giới NLP

Năm 2017, Google công bố bài báo “Attention Is All You Need” thông tin về Transformer như tạo ra bước ngoặt mới trong lĩnh...

Khái quát về Data Pipeline

Dữ liệu là chìa khóa trong việc khám phá tri thức sâu rộng, nâng cao hiệu quả quy trình và thúc đẩy đưa ra...